Tư vấn pháp luật 365 Quan lại là gì? Những điều cần biết về quan lại thời phong kiến
Quảng cáo trái
Quảng cáo phải

Quan lại là gì?

Quan lại là gì? Những điều cần biết về quan lại thời phong kiến

Khái niệm quan lại ?

Quan lại là tên gọi những người giữ các chức vụ từ cấp huyện trở lên trong bộ máy nhà nước phong kiến và nhà nước thuộc địa (thời Pháp thuộc) ở Việt Nam trước đây. Những người điều hành được gọi chung là quan và những người thừa hành được gọi chung là lại.

                           Quan lại là gì?

Tuyển dụng, sử dụng quan lại thời phong kiến Việt Nam

Trong bất kỳ một chế độ nhà nước nào và vào bất kỳ thời đại nào, để bộ máy nhà nước vận hành tốt, làm tròn bổn phận của mình với xã hội đều tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng yếu tố có tính quyết định luôn là con người – những người phục vụ trong bộ máy đó. Vì vậy, việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật những người phục vụ trong bộ máy nhà nước có ý nghĩa quyết định đến đời sống nhà nước, xã hội, đến từng cá nhân con người trong xã hội.

Tuyển chọn quan lại

Để chọn nhân tài, nhà nước phong kiến Việt Nam đã áp dụng nhiều hình thức tuyển dụng như: nhà vua đích thân đi tìm người hiền tài về cộng tác để trị nước (tiến cử); bằng con đường tiến cử hoặc cầu hiền; bằng con đường khoa cử – đây là hình thức phổ biến nhất.

Hình thức tuyển dụng quan lại thời phong kiến là những kinh nghiệm lịch sử, vẫn còn nguyên giá trị, ngày nay cần quan tâm chắt lọc biến thành những quy tắc pháp lý làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội.

Phân loại, sắp xếp bố trí quan lại

Thời phong kiến dựa vào yếu tố quyền lực, các chức vụ nhà nước phân thành hai loại: quan lại và nha lại. Quan chỉ huy, điều hành như quan tổng đốc, quan tri phủ, tri huyện; nha lại là người thừa hành, phục vụ cho các quan lại tại các nha môn, mà ngày nay gọi là “cán bộ”, “nhân viên”, hay công chức lãnh đạo, quản lý, công chức thừa hành.

Đối với đội ngũ quan lại, nhà nước phong kiến Việt Nam áp dụng chế độ thuyên chuyển, điều động, nhưng nha lại thì giữ ổn định, áp dụng chế độ “quan khứ nha tồn”. Để tạo môi trường mới, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người làm quan, đồng thời để tránh những trì trệ, hoặc kéo bè, kéo cánh, phe phái, tham nhũng, nhà nước phong kiến Việt Nam đã áp dụng chế độ thuyên chuyển quan lại. Nhưng việc thuyên chuyển chỉ thuần túy là thuyên chuyển về không gian, địa điểm làm quan, mà không chuyển tính chất công việc làm quan,

ví dụ quan tri phủ ở phủ này chuyển đi làm tri phủ ở phủ khác, hoặc làm tri huyện. Đây là bài học có tính lịch sử cần phải suy ngẫm khi thực hiện công tác luân chuyển cán bộ hiện nay.

Về biên chế, phân bổ quan lại

Các triều đại phong kiến Việt Nam thường dựa vào tiêu chí dân số để quy định về số lượng quan lại. Thời vua Lê Thánh Tông quy định: từ 500 hộ trở lên có 5 xã trưởng; 300 hộ có 4 xã trưởng; 100 hộ có 2 xã trưởng, dưới 60 hộ cử 1 xã trưởng. Năm 1839 thời vua Minh Mạng thứ 20, lấy số lượng và nhu cầu công việc là tiêu chí cơ bản để quyết định biên chế, phân bổ số quan lại, các chức trách của quan, lại dần được chuyên môn hóa. Trong chỉ dụ vua Minh Mạng năm 1831 có viết “Bắc thành 11 trấn rất rộng… việc nhiều, các địa phương ấy các việc quân dân, kiện tụng, tiền lương, thuế khóa, thực là bề bộn. Cần phải chiểu theo địa hạt chia người coi giữ có chuyên trách”. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì người xưa đã dựa vào việc để định số lượng người chứ không phải dựa vào lượng người để định việc, đã áp dụng chế độ “công vụ theo việc làm”.

Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến Việt Nam còn áp dụng chế độ “hồi tị” đối với quan lại. Việc sắp xếp quan lại ở các địa phương được quy định khá chi tiết như “người sinh ra ở vùng này tới cai trị vùng khác, thậm chí “các quan viên có nhà ở gần bản nha môn thì Bộ Lại nên đổi đi nơi khác. Luật Hồng đức còn cấm quan lại địa phương lấy vợ tại địa phương mình cai quản. Trong Chiếu tháng 9/1488 của Hồng Đức có quy định việc sắp đặt quan lại tránh quan hệ họ hàng: “Khi xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, con chú bác và bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ có một người làm xã trưởng, không được cùng làm để gây mối tệ bè phái hùa nhau”. Những quy định này nhằm tạo nên một chế độ quan lại liêm chính, không bị chi phối bởi quan hệ họ hàng, dòng tộc, làng – xã mà làm sai lệch việc công hay tham nhũng. Thời vua Minh Mạng quy định: quan vào chầu triều mà bàn đến việc có liên quan đến địa phương mình thì phải tránh mặt. Lai dịch ở tất cả các nha môn, hễ có bố con, anh em ruột, anh em con chú bác cùng làm phải đổi nơi khác (trừ Thái y viện không hồi tị, vì nghề thuốc nên cha truyền con nối). Lại dịch ở các nha mà người cùng làng cũng phải đổi đi nơi khác, lại ở huyện nào thì không được làm ở đấy. Người làm quan không được làm quan ở chính quán, trú quán, quê vợ, thậm chí nơi lúc nhỏ đi học.

Đây chính là chế độ bảo đảm cho sự khách quan, trung thực trong giải quyết các công việc của nhà nước, tránh thiên vị, nể nang, hay thù oán, làm mất tính khách quan khi đưa ra các quyết định.

Về chế độ trách nhiệm

Nhằm tránh sự ỷ lại hay đùn đẩy, trốn tránh trách nhiệm, năm 1487 vua Lê Thánh Tông ra chỉ dụ buộc quan lại các cấp khi nhận được chỉ dụ của Vua phải đưa ra bàn bạc thật kỹ, không được hùa theo hay nín lặng không nói gì, khi cần có thể tâu lên Vua. Ngoài ra còn quy định chế độ hợp tác trong công việc giữa các quan chức khác nhau, khi có vấn đề quan trọng cần tấu lên Vua các quan phải cùng nhau ký vào. Thời vua Minh Mạng có quy định tương tự: “Tuần phủ khi có chính sự lớn lao về hưng lợi, trừ tệ thì cùng với Tổng đốc bàn bạc rồi cùng ký tâu chung một giấy. Nếu có ý kiến khác nhau cho làm tờ tấu riêng”.

Sau năm 1945, ở nước ta đã áp dụng chế độ tiếp ký, nhưng sau này chế độ tiếp ký không còn, từ đó cũng dễ dẫn đến tình trạng “đổ lỗi cho nhau”, công của tôi, lỗi của anh và được biện minh bằng một câu thiếu trách nhiệm “tôi bảo lưu ý kiến”, mặc dù đều ngồi bàn và ra quyết định.

Chế độ đãi ngộ, thưởng phạt quan lại

Từ thời vua Lê Thánh Tông trở đi, bổng lộc của quan lại được quy định theo chức tước, phẩm hàm và tuỳ theo khối lượng công việc, thực chất là áp dụng nguyên tắc trả lương theo việc làm và công trạng. Bên cạnh chế độ tiền lương, các triều đình phong kiến còn áp dụng chế độ tiền “dưỡng liêm” (theo nghĩa đen là nuôi dưỡng liêm khiết) cấp cho những viên quan cai trị gần dân như tri phủ, tri huyện nhằm khuyến khích “đức thanh liêm”, nhưng không phát đồng đều cho các tất cả các tri phủ, tri huyện mà tùy thuộc vào nhiều hay ít công việc của từng phủ, từng huyện.

Chế độ quan lại thời phong kiến còn đặc biệt chú trọng tới trách nhiệm của các quan lại trong thừa hành công vụ. Quốc triều Hình luật có nhiều quy định mang tính chất trừng trị nghiêm khắc như: phạt do để chậm trễ chiếu chỉ công văn giấy tờ (Điều 23), quan do vô tình dùng dằng để lỡ mất việc, nếu việc nhỏ (công việc hàng ngày) xử tội biếm, việc thường (công việc hàng tháng) xử tội đồ, việc lớn (công việc hàng năm) xử tội lưu (Điều 136). Bên cạnh đó còn có những quy định khác như: đối với quan tại chức, không đến nơi làm việc mà không có lý do thì bị xử phạt biếm hoặc bãi chức (Điều 4), nếu ở sở làm mà ngồi không đúng phép sẽ bị xử tội Biếm hoặc phạt tiền (Điều 33). Những quy định này khá mẫu mực để thiết lập một trật tự kỷ cương, chế độ phục vụ.

Thời vua Minh Mạng, vấn đề thưởng phạt cũng rất nghiêm minh, quan lại có công thì được ban thưởng lớn, có tội, có lỗi đều bị xử phạt nghiêm khắc. Ví dụ: năm 1838 vua Minh Mạng đã cách chức Thượng thư Bộ Lễ của Phan Huy Thực về lỗi do không kiểm tra, đôn đốc để người dưới quyền không trông nom, bảo quản đồ thờ trong nhà Thế miếu, để bọn Giám thủ đánh tráo từ vàng thật thành vàng giả.

Ngày nay, chúng ta cũng áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, gồm khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm. Cán bộ phạm tội bị tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; trường hợp bị tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị thôi việc. Đối với công chức áp dụng các biện pháp khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức; buộc thôi việc. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng các biện pháp kỷ luật đối công chức dường như rất khó khăn trong thực tiễn.

Hy vọng bài viết trên đây đã giải đáp được thắc mắc của bạn. Để biết thêm các thông tin chi tiết về vấn đề này, Quý bạn đọc có thể kết nối tổng đài 19006284 để được tư vấn chuyên sâu. Ngoài ra, Tư vấn pháp luật 365 còn cung cấp nhiều dịch vụ liên quan đến thành lập, giải thể, tổ chức lại doanh nghiệp,…Để được hỗ trợ các dịch vụ có liên quan đến các thủ tục hành chính, Quý khách hàng kết nối số hotline, Tư vấn pháp luật 365 luôn sẵn sàng hỗ trợ.

Xem thêm:

 


Bài viết liên quan cùng chủ đề: