Tư vấn pháp luật 365 Cam kết không sinh con trong vài năm đầu làm việc
Quảng cáo trái
Quảng cáo phải

Cam kết không sinh con trong vài năm đầu làm việc

Cam kết không sinh con trong vài năm đầu làm việc

Công ty Luật TNHH Phamlaw có nhận được câu hỏi từ email Thangpham…@gmail.com với nội dung câu hỏi như sau;

Khi ký kết hợp đồng lao động, vợ tôi có đồng ý ký kết vào văn bản cam kết không sinh con trong vài năm đầu làm việc. Tôi thấy cam kết này là hoàn toàn vô lý và không phù hợp với quy định pháp luật hiện hành. Tôi muốn hỏi, thỏa thuận này giữa vợ tôi và công ty có giá trị pháp lý không? Trong trường hợp vợ tôi mang thai và công ty chấm dứt hợp đồng lao động với vợ tôi thì công ty có vi phạm pháp luật không? Rất mong Luật sư có thể tư vấn giúp tôi.

Cảm ơn Luật sư!

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Luật PhamLaw. Với câu hỏi của bạn, Phamlaw xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:

CĂN CỨ PHÁP LÝ

Bộ luật lao động 2019

Nghị định 12/2022/NĐ-CP

NỘI DUNG TƯ VẤN

Để hạn chế sự gián đoạn trong sản xuất kinh doanh do lao động nữ nghỉ thai sản nên một số công ty đã yêu cầu người lao động ý cam kết không mang thai, sinh con trong những năm đầu làm việc. Tuy nhiên, cam kết này đã vi phạm đến quyền thực hiện kế hoạch hóa gia đình của công dân được nêu tại Văn bản hợp nhất 14/VBHN-VPQH năm 2013:

“Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản:

1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con.

2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định;

3. Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản”.

Theo quy định trên, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định thời gian và khoảng cách sinh con. Người lao động nữ cũng vậy, họ có quyền quyết định thời gian sinh con. Do đó, việc người sử dụng lao động yêu cầu lao động nữ cam kết không sinh con là đã xâm phạm đến quyền tự quyết trong việc sinh con của cá nhân. Đây là một hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Vì vậy, trường hợp người lao động có ký vào bản cam kết không mang thai trong thời gian làm việc thì cam kết đó cũng không có giá trị pháp lý.

Mặt khác, khoản 3 Điều 137 Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định, người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý do mang thai, nghỉ thai sản. thì người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật cũng như đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trong trường hợp người sử dụng lao động vẫn xử lý kỷ luật và chấm dứt hợp đồng lao động với vợ của bạn thì thì người sử dụng lao động có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (đối với cá nhân), trường hợp người sử dụng lao động là tổ chức thì bị phạt từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng khi vi phạm quy định về lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới theo quy định tại điểm h, i khoản 2 Điều 28 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

“Điều 28. Vi phạm quy định về lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

h) Xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ đang trong thời gian mang thai hoặc nghỉ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

i) Sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”

Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở lại làm việc khi có hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 2 Điều 28 Nghị định 12/2022/NĐ-CP.

Tuy nhiên, người sử dụng lao động có thể thỏa thuận với người lao động về việc chấm dứt hợp đồng lao động và người lao động đồng ý thì việc chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp này sẽ là hợp pháp.

Trên đây là tư vấn của Phamlaw đối với câu hỏi của bạn. Để biết thêm các thông tin chi tiết về vấn đề này, Quý bạn đọc có thể kết nối tổng đài 1900 để được tư vấn chuyên sâu. Ngoài ra, Luật Phamlaw còn cung cấp nhiều dịch vụ liên quan đến thành lập, giải thể, tổ chức lại doanh nghiệp,…Để được hỗ trợ các dịch vụ có liên quan đến các thủ tục hành chính, Quý khách hàng kết nối số hotline 091 611 0508 hoặc 097 393 8866, Phamlaw luôn sẵn sàng hỗ trợ.


Bài viết liên quan cùng chủ đề: